Trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước, phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng xây dựng
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đảm bảo phục vụ cho công cuộc đối mới
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng
tầng là gì? Giữa chúng có mối quan hệ với nhau như thế nào?
QHSX được hình thành một cách khách quan trong quá trình
sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên
các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội
được khái quát thành CSHT và KTTT của xã hội. Trong đó:
CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. CSHT của một xã hội
cụ thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của
xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các QHSX khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội.
Bởi vậy, CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong xã
hội đó. Tuy nhiên, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát
triển của LLSX, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX
"hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó
hình thành nền KTTT tương ứng.
KTTT là toàn bộ những quan điểm
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, ... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội,
các đoàn thể xã hội,... được hình thành trên CSHT nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp trong đó Nhà nước có
vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước chính là đại biểu tiêu biểu cho chế độ
đang tồn tại và chính nhờ vào vai trò của Nhà nước mà giai cấp thống trị có thể
áp đặt được tư tưởng của mình đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT:
CSHT và KTTT là hai phương diện
cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và phương diện về
chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT và KTTT
thường xuyên có sự tác động trở lại đối với CSHT.
Vai trò quyết định của CSHT đối
với KTTT
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi CSHT
sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời
sống tinh thần của xã hội.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ: CSHT thay đổi
thì sớm hay muộn, KTTT cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong
giai đoạn chuyển tiếp thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái
kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế
- xã hội.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp. Trong đó,
có những yếu tố của KTTT thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của CSHT như chính trị, pháp luật,... Trong KTTT, có những yếu
tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,... hoặc có những
yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi
đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phù hợp với CSHT, nhưng đó không phải là sự
phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành
nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động
một cách mạnh mẽ đối với CSHT.
Tất cả các yếu tố cấu thành KTTT đều có tác động đến CSHT. Tuy nhiên, mỗi yếu
tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội
có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với CSHT vì đó là bộ
máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT
như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều tác động đến CSHT, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều. Nếu KTTT tác động
phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế,
kìm hãm phát triển xã hội.
Thực trạng cơ sở hạ tầng và KTTT ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối
toàn diện. Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện
đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới vẫn còn tồn tại.
Về KTTT:
Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản”
Tuy nhiên, tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn
đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống
nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo
điều hành.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu
kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ
trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng
với chức năng quản lý của NN có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân
còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo
ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia
tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường cũng như những âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và
phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm
vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển
mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều
vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần
kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước đi thích hợp
làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của
Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên
tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối
đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả
sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của
người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc
gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và
trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục
làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp,
tính dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế
XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách
nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ chức quần chúng từ trung
ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm
bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
- Tăng cường củng cố sức
mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi
âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét