This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2020

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận


Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận?

Quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của các trường phái triết học. Mọi trường phái TH đều tập trung giải quyết. Tuy nhiên mỗi trường phái khác nhau thì có cách lý giải khác nhau. Theo quan điểm duy tâm cho rằng ý thức tinh thần là cái có trước, giữ vai trò quyết định đối với vật chất. Quan điểm nhị nguyên luận thì cho rằng cả VC và YT đều song song tồn tại, không có cái nào giữ vai trò quyết định và cả 2 đều là những nguyên thể đầu tiên để tạo nên thế giới. Chỉ đến TH MLN thì quan hệ này mới giải quyết 1 cách triệt để và có căn cứ khoa học.
Để hiểu được giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ như thế nào, trước hết chúng ta cần nắm được các định nghĩa về vật chất và ý thức theo quan niệm của chủ nghĩa Mác.    
1. Định nghĩa vật chất.
Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là một phạm trù triết học: Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyên hoá thành cái khác. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
- Vật chất là cái tồn tại khách quan ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức. Đây chính là thuộc tính cơ bản nhất, chung nhất của vật chất, là điểm chủ yếu để phân biệt được cái gì thuộc về vật chất và cái gì không thuộc vật chất.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó trực tiếp hay gián tiếp tác động vào các giác quan của con người. Điều này khẳng định tính có thể nhận biết được của vật chất và con người thông qua các giác quan của mình hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới xung quanh.
- Vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức của con người chẳng qua là cái phản ánh của nó mà thôi. Điều này khẳng định trong quan hệ với ý thức thì vật chất giữ vai trò quyết định, nó là nguồn gốc khách quan của ý thức.
2. Định nghĩa về ý thức.        
“Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong óc người, phản ánh thế giới vật chất bên ngoài, được hình thành trong quá trình vận động và được diễn đạt nhờ phương tiện ngôn ngữ” 
- Quan điểm Macxit cho rằng: ý thức ra đời và phát triển từ những điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội (tức là do bộ óc phản ánh các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan và do lao động và ngôn ngữ).
+ Về nguồn gốc tự nhiên: Dựa trên thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần học, duy tâm khẳng định mà ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao đó là bộ óc của con người
+ Về nguồn gốc xã hội: Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thàh bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
- Xét về bản chất, ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào trong tư duy của con người, tạo nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Xét về kết cấu, ý thức có nhiều yếu tố khách quan như tri thức, ý chí, tình cảm, động cơ, niềm tin, lý tưởng… các yếu tố đó có vị trí khách nhau nhưng đồng thời lại có mối quan hệ khăn khít, tác động lẫn nhau và cùng tạo nên tác động tổng hợp của ý thức.
Vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ như thế nào?
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Thứ nhất: Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Triết học Mác - Lênin trên khẳng định rằng: vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức và vai trò quyết định đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, xét về mặt thời gian, vật chất là cái có trước, là cái vô cùng vô tận, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Còn ý thức là cái có sau, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người, loài người và nó là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên cũng như của những hoạt động của con người. Vì vậy ý thức là cái không thể nào sinh ra vật chất được.
Hai là, xét về mặt nguồn gốc hình thành: VC không do ai sáng tạo ra và không thể bị mất đi, có nguồn gốc từ bản thân nó còn sự xuất hiện của ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên và XH và những nguồn gốc này có liên quan, gắn bó chặt chẽ với TG VC. Thế giới vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ba là, xét về mặt nội dung : ý thức chỉ là cái phản ánh, còn thế giới vật chất là cái được phản ánh. Đương nhiên, nếu không có cái được phản ánh-tức là thế giới vật chất-thì sẽ chẳng có được một hình ảnh nào đó về nó. Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Bốn là, xét về sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức: sự phát triển của tư duy, của ý thức con người phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn con người trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới vật chất. Trình độ nhận thức của con người phụ thuộc vào trình độ hoạt động chinh phục tự nhiên, cải tạo XH của chính con người. Do đó, vật chất quyết định phương thức, kết cấu của ý thức.
Như vậy, xét cả về mặt thời gian, nguồn gốc hình thành, về mặt nội dung cũng như về sự vận động biến đổi và phát triển của ý thức cho thấy: vật chất luôn là tính thứ nhất, ý thức luôn là tính thứ hai, vật chất bao giờ cũng quyết định ý thức.
Thứ hai: Ý thức có tác động mạnh mẽ trở lại đối với thế giới vật chất.
- Trong khi nhấn mạnh vật chất quyết định ý thức thì triết học Mác-Lênin đồng thời cũng khẳng định ý thức cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đối với vật chất, theo cả hai chiều hướng:
+ Những ý thức đúng đắn, khoa học và cách mạng phản ánh đúng bản chất, quy luật vận động của thế giới vật chất sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sự vận động, phát triển của thế giới vật chất.
+ Những ý thức, tư tưởng phản khoa học, phản ánh xuyên tạc bản chất, quy luật vận động thế giới khách quan sẽ có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
- Chúng ta cũng cần phải chú ý rằng:
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Còn bản thân ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được gì trong hiện thực. Vì vậy nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói đến vai trò của con người, ý thức chỉ đạo hành động của con người hình thành mục tiêu kế hoạch, biện pháp cho hoạt động của con người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Trong bất kỳ trường hợp nào ý thức cũng chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất và sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh và sáng tạo trong khuôn khổ của sự phản ánh.
Thứ ba: Biểu hiện của mối quan hệ vật chất và ý thức trong đời sống xã hội
Qua đó, chúng ta có thể xác định được biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội, đó là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giũa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan…
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra được những ý nghĩa sau:
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong hoạt động nhận thức phải đảm bảo nguyên tắc: “Tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy thực tế khách quan là căn cứ cho mọi kế hoạch của mình.
Lê Nin đã nhấn mạnh: “Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược  cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý trí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan dung ý chí”.
+ Phải có quan điểm khách quan, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, không trung thực trong xem xét và giải quyết vấn đề.
+ Không được lấy nhiệt tình cách mang thay thế cho tri thức. (“Nhiệt tình + sự ngu dốt thành ra phá hoại”)
+ Trong hoạt động thực tiễn phải biết nhận thức và vận dụng khách quan một cách chủ động, sáng tạo, với ý chí cách mạng theo nhu cầu tiến bộ xã hội. Chống lại chủ quan duy ý chí bất chấp quy luật khách quan mà phải luôn luôn xuất phát từ thực tế.
+ Trong hoạt động thực tiễn, những mục đích, chủ trương mà chúng ta đặc ra cho hoạt động thực tiễn là đúng đắn là hiện thực phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan; nếu không chú ý đến tính quy định của điều kiện vật chất khách quan thì sẽ trở thành mục tiêu không hiện thực, không tưởng.
+ Những biện pháp thực tiễn mà con người dùng để cải tạo thế giới vật chất không phải là sự sáng tạo thuần túy của ý thức mà là phải dựa vào những gì đang có trong hiện thực.
+ Bản thân tư tưởng, dù tư tưởng lành mạnh đến mấy, tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Lực lượng vật chất phải đánh bại bằng lực lượng vật chất.
+ Ý thức tư tưởng chỉ có thể duy trì và phát triển trên cơ sở những quan hệ vật chất nhất định. Cũng không thể dùng ý thức để duy trì những quan hệ vật chất trong lịch sử được. Vì rằng những quan hệ vật chất tồn tại theo những quy luật khách quan vốn có của nó không phụ thuộc vào ý thức, tư tưởng.
- Bên cạnh đó, ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy cần phải phát huy tính tích cực năng động của ý thức, của nhân tố chủ quan bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn qua một cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp.
+ Muốn đề ra mục đích chủ trương và biện pháp hành động thực tiễn đúng, phải nhận thức đúng được điều kiện vật chất khách quan. Như vậy, ngay từ đầu, ý thức giữ vai trò rất quan trọng. Vì nếu không nhận thức đúng đắn điều kiện vật chất khách quan cho phép thì sẽ đề ra mục đích, chủ trương và biện pháp sai lầm.
+ Khi đã có mục đích, chủ trương và biện pháp đúng, muốn cho những khả năng khách quan thành hiện thực, con người cần có ý chí, nghị lực, quyết tâm thực hiện nó. Ơ đây, ý thức tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động thành công hay thất bại khi thực hiện những khả năng khách quan.
5. Ý nghĩa đối với quá trình xây dựng đất nước ta
- Cần xuất phát từ thực tế khách quan: “Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tả khuynh bất chất thực tế khách quan, bất chấp quy luật khách quan cũng như hữu khuynh có thái độ thụ động chờ đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan”
(Nội dung xuất phát từ thực tế khách quan là)
+ Thực tế ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới chúng ta đã phạm phải những sai lầm. Đó là khuynh hướng tả khuynh trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới: nóng vội, đốt cháy giai đoạn, vi phạm quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất… do đó tiến hành cải cách ồ ạt, xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Do đó,  trong cương lĩnh của Đảng ta đại hội VII đã khẳng định: “Đảng đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vì phạm phải quy luật khách quan” và Đại hội rút ra bài học là: “Mọi đường lối, chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Bài học này luôn có ý nghĩa thời sự xuyên suốt quá trình đổi mới ở nước ta.
+ Tại Đại hội IX, trong những bài học rút ra qua 15 năm đổi mới, Đảng khẳng định: “Đổi mới phải phù hợp với thực tiễn và luôn sáng tạo”.
+ Tại đại hội XI, nghị quyết nêu rõ “trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới…”.
- Bên cạnh việc cần phải tôn trọng thực tế khách quan, trong quá trình xây dựng đất nước cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, tính tích cực, chủ động trong hoạt động cải tiến thế giới khách quan của con người.
+ Vai trò tích cực của ý thức tư tưởng không phải ở chỗ nào nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, pháy huy vai trò nhân tố con người trong việc cải tạo thế giới khách quan là vấn đề có ý nghĩa  quyết định đến  thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng.
+ Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong thời kỳ đổi mới phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước ý chí quật cường phát huy tài chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
+ Đến Đại hội IX, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam;coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH….. phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững..”
+ Đại hội lần thứ X: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”
Như vậy, trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và nhà nước ta đã xác định rõ tư tưởng đó là: Cần chống xu hướng, quan điểm coi thường thực tế khách quan để rơi vào chủ nghĩa duy tâm, duy ý chí. Mặt khác cần chống khuynh hướng giáo điều hay thụ động chờ đợi để rơi vào chủ nghĩa bảo thủ.
(* Phương hướng xây dựng đất nước
- Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Từ những luận điểm của cách mạng Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và đặc điểm của thời cuộc ngày nay.
- Từ kinh nghiệm thành công hay không thành công của các nước trong và ngoài khu vực trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước của họ.
- Xuất phát từ nhiệm vụ trong tâm của nước ta hiện nay là phải làm cho sản xuất phát triển nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất để từng bước xây dựng, củng cố QHSH mới theo định hướng XHCN.
+ Xây dựng đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, từng bước thể chế hóa bằng pháp luật; phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với đất nước, các địa chỉ từ thiện.
+ Tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là giải pháp quyết định đưa đất nước phát triển lên CNXH. Song CNH-HĐH thành công hay không trước hết do sức mạnh bên trong của chúng ta quyết định, đồng thời phải biết tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài.
+ Đẩy mạnh sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, phát huy nhân tố con người để xây dựng chế độ xã hội mới.
+ Chống 4 nguy cơ: tuột hậu về kinh tế, diễn biến hòa bình, tham nhũng và đi chệch hướng XHCN, chống chủ quan duy ý chí.
+ Bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng… chống đa nguyên về chính trị.)
* Ý nghĩa phương pháp luận trong công tác công an.

Vấn đề cơ bản của triết học và phân định các trường phái triết học khác nhau


Vấn đề cơ bản của triết học và phân định các trường phái triết học khác nhau
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết nghiên cứu về những vấn đề chung nhất của thế giới tự nhiên, XH và con người, nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý luận.
Ra đời từ khoảng thế kỷ VIII - VI TCN, triết học đã tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là lịch sử triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?Hay nói cách khác, giữa vật chất và ý thức, cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai, cái nào giữ vai trò quyết định?
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan hay không?
Mọi triết học đều tập trung giải quyết hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học, chính vì vậy, vấn đề cơ bản của triết học là chuẩn mực để phân biệt các trường phái triết học trong lịch sử. Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Tất cả những hiện tượng mà chúng ta gặp thường ngày chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hình thức tinh thần tồn tại trong ý thức chúng ta. Không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực đó. Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập đến và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, bằng hình thức này hoặc hình thức khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Có thể nói, ở đâu và lúc nào việc nghiên cứu được tiến hành trên bình diện vấn đề quan hệ vật chất và ý thức thì lúc đó và ở đó việc nghiên cứu triết học được bắt đầu. Kết quả và thái độ của việc giải quyết đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp của các nhà nghiên cứu; xác định bản chất của các trường phái triết học đó.
Về việc phân định các trường phái triết học:
Phụ thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi: ý thức và vật chất, tinh thần hay giới tự nhiên, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mà các nhà triết học chia làm thành hai trường phái cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sang tạo ra; còn ý thức là phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể:
+ Hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là CNDV thời cổ đại còn mang tính chất phác và chủ yếu dựa trên sự quan sát trực tiếp và những kinh nghiệm cảm tính, nó chưa có được một cơ sở khoa học là nền tảng.
+ Hình thái lịch sử thứ hai của CNDV là CNDV siêu hình xuất hiện trong khoảng thế kỷ XVII - XVIII, nó xem xét giới tự nhiên và con người như một hệ thống máy móc phức tạp khác nhau và chỉ nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong trạng thái biệt lập không vận động và không phát triển.
+ Hình thái thứ 3 của CNDV là CNDV biện chứng với đặc điểm nổi bật có sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng trên cơ sở những thành tựu khoa học chuyên ngành cụ thể.
Ngoài những hình thái cơ bản trên trong lịch sử phát triển của CNDV còn có CNDV tầm thường (đồng nhất vật chất - ý thức, xem nhẹ vai trò của ý thức) và CNDV kinh tế (xem kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động phát triển toàn bộ đời sống XH).
Đối lập với chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy tâm cho rằng: tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, của vật chất. Trong trường phái triết học duy tâm lại được phân chia thành 02 hình thái sau:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Với quan điểm cho rằng có một thực thể tinh thần ý thức tồn tại một cách độc lập ở bên ngoài con người và thế giới vật chất nó có trước và sản sinh ra toàn bộ thế giới vật chất và cả con người; Nó quy định và quyết định sự vận động phát triển của thế giới vật chất. Hai đại biểu lớn nhất của trường phái đó là: Platôn và Hêgen.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: với quan niệm cho rằng cảm giác là cái có trước và tồn tại sẵn trong con người. Các sự vật hiện tượng bên ngoài chỉ là phức hợp của cái cảm giác đó mà thôi. Hai đại biểu của trường phái duy tâm chủ quan là: Hium và Bécơly.
Tuy nhiên, dù biểu hiện khác nhau thì các nhà triết học duy tâm chủ quan hay khách quan cũng chỉ là bằng cách này hay cách khác phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.
Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học theo nhị nguyên luận, họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi hiện tượng trong thế giới. Họ cho rằng thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất; thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần.
Về việc trả lời cho câu hỏi, khả năng nhận thức thế giới của con ngươì. Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ chỗ cho rằng, vật chất là nguồn gốc của ý thức và ý thức là sự phản ánh của thế giới vật chất. Do đó thừa nhận con người có khả năng, có thể nhận thức được thế giới và các quy luật của thế giới. Đa số các nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận thế giới là có thể nhận thức được. Nhưng do xuất phát từ quan niệm cho rằng, ý thức có trước vật chất và vật chất phụ thuộc vào ý thức, cho nên, theo họ, nhận thức thế giới không phản ánh thế giới mà chỉ là tự nhận thức, phủ nhận cảm giác, khả năng, ý niệm của con người là cái phản ánh các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan.
Trả lời câu hỏi mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học còn có những nhà triết học bác bỏ về khả năng của con người nhận thức được thế giới. Đó là những nhà triết học theo thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết).
Như vậy, việc trả lời cho hai câu hỏi của hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học chính là căn cứ để phân biệt các trường phái triết học trong lịch sử: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận và bất khả tri luận; chủ nghĩa nhị nguyên và chủ nghĩa hoài nghi luận. Nhưng về căn bản có chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái chính và lớn nhất, còn về thực chất, chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm, còn hoài nghi luận thuộc về bất khả tri luận; mặt khác, bất khả tri luận thường có mối liên hệ mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận thường gắn với chủ nghĩa duy vật.
Qua việc nghiên cứu trên, trên quan điểm của chủ nghĩa DVBC chúng ta cần thấy rằng vật chất có trước, ý thức có sau, VC quyết định YT và con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan. Trên cơ sở đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình cần xuất phát từ thế giới hiện thực khách quan, trên cơ sở hiện thực khách quan mà hình thành nên những nhận thức về các sự việc, hiện tượng một cách đầy đủ nhất, không nên chỉ xuất phát từ ý thức chủ quan của mình. Đồng thời cũng cần nâng cao khả năng nhận thức của mình về thực tế khách quan để cải tạo thế giới khách quan phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình.

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng và nhà nước ta.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đảm bảo phục vụ cho công cuộc đối mới đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì? Giữa chúng có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Kết quả hình ảnh cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
QHSX được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành CSHT và KTTT của xã hội. Trong đó:
CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các QHSX khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát triển của LLSX, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nền KTTT tương ứng.
KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, ... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... được hình thành trên CSHT nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước chính là đại biểu tiêu biểu cho chế độ đang tồn tại và chính nhờ vào vai trò của Nhà nước mà giai cấp thống trị có thể áp đặt được tư tưởng của mình đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và phương diện về chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT và KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại đối với CSHT.
      Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ: CSHT thay đổi thì sớm hay muộn, KTTT cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của KTTT thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của CSHT như chính trị, pháp luật,... Trong KTTT, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,... hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phù hợp với CSHT, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với CSHT.
Tất cả các yếu tố cấu thành KTTT đều có tác động đến CSHT. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với CSHT vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều tác động đến CSHT, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều. Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Thực trạng cơ sở hạ tầng và KTTT ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.
Về KTTT:
Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
Tuy nhiên, tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.                 
      + Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
      + Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
     - Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.

Nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ công tác

Khi nghiên cứu về Phép biện chứng duy vật trong triết học Mác-Lênin nổi bật lên nội dung của C. Mác và Ph.Ăngghen bàn về mối liên hệ phổ biến. Tìm hiểu mối liên hệ phổ biến này có giá trị ở chỗ định hướng cho chúng ta trong khi xem xét và giải quyết vấn đề cần phải tôn trọng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể để tránh những sai sót, va vấp trong công việc và đời sống. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu nội dung cơ bản của mối liên hệ phổ biến theo quan điểm của triết học Mác-Lênin.
Kết quả hình ảnh cho maclenin
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau khi đi vào giải quyết vấn đề: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ có mối liên hệ qua lại với nhau hay tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quyết định mối liên hệ đó?
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách rời nhau, không có sự phụ thuộc, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu có thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song lại phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Những người theo quan điểm duy tâm cho rằng cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan chỉ ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của các mối liên hệ. Còn Béccơly đứng trên lập trường duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Vượt lên trên quan điểm siêu hình, duy tâm, quan điểm duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn: bão từ diễn ra từ mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó, tác động đến mọi vật, trong đó có con người.
- Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới khách quan.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới tự nhiên, trong xã hội loài người và trong tư duy. Đó là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật. Mối liên hệ phổ biến thể hiện ra trong những điều kiện nhất định, thành mối liên hệ đặc thù.     
Vậy mối liên hệ phổ biến có những tính chất nào?
Thứ nhất, tính khách quan:
+ Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau, song chúng đều là những dạng cụ thể của thế giới vật chất. Và chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau.
  + Các sự vật và hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật và hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật và hiện tượng khác.
Thứ hai, tính phổ biến: Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến thể hiện qua những điểm sau:
- Xét về mặt không gian: Mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật khác. Trong hiện thực khách quan không có sự vật hiện tượng nào cô lập, không tác động và không nhận tác động từ sự vật, hiện tượng khác. Vừa tách biệt nhau, vừa phụ thuộc vào nhau – đó là hai mặt của quá trình tồn tại, vận động, phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng.
- Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: Các yếu tố, bộ phận cấu thành nên sự vật không tồn tại trong trạng thái biệt lập hay hổn độn mà chúng được kết cấu theo một trật tự logic nhất định, một kiểu tổ chức nhất định tạo thành một chỉnh thể.
      - Xét về mặt thời gian: Mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai đoạn, những thời kỳ khác nhau. Các giai đoạn, các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau.
Thứ ba, mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú và phức tạp:
- Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất đa dạng. Khi nghiên cứu về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau như: Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, mối liên hệ bản chất và không bản chất…
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ.
- Sự phân chia từng cặp mối liên hệ nêu trên chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng ta rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Cụ thể là:
      - Trong nhận thức:
- Trong hoạt động thực tiễn:
        
         Tóm lại, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra tính chất khách quan, tính phổ biến và tính phong phú của sự tồn tại trong các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó muốn nhận thức đối tượng đúng đắn thì cần phải tôn trọng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong khi nhận thức, xem xét, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc và cuộc sống./.