This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng và nhà nước ta.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đảm bảo phục vụ cho công cuộc đối mới đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì? Giữa chúng có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Kết quả hình ảnh cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
QHSX được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành CSHT và KTTT của xã hội. Trong đó:
CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các QHSX khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát triển của LLSX, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nền KTTT tương ứng.
KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, ... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... được hình thành trên CSHT nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước chính là đại biểu tiêu biểu cho chế độ đang tồn tại và chính nhờ vào vai trò của Nhà nước mà giai cấp thống trị có thể áp đặt được tư tưởng của mình đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và phương diện về chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT và KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại đối với CSHT.
      Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở chỗ: CSHT thay đổi thì sớm hay muộn, KTTT cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của KTTT thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của CSHT như chính trị, pháp luật,... Trong KTTT, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,... hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phù hợp với CSHT, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với CSHT.
Tất cả các yếu tố cấu thành KTTT đều có tác động đến CSHT. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với CSHT vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều tác động đến CSHT, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều. Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Thực trạng cơ sở hạ tầng và KTTT ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.
Về KTTT:
Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
Tuy nhiên, tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.                 
      + Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
      + Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
     - Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.

Nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ công tác

Khi nghiên cứu về Phép biện chứng duy vật trong triết học Mác-Lênin nổi bật lên nội dung của C. Mác và Ph.Ăngghen bàn về mối liên hệ phổ biến. Tìm hiểu mối liên hệ phổ biến này có giá trị ở chỗ định hướng cho chúng ta trong khi xem xét và giải quyết vấn đề cần phải tôn trọng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể để tránh những sai sót, va vấp trong công việc và đời sống. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu nội dung cơ bản của mối liên hệ phổ biến theo quan điểm của triết học Mác-Lênin.
Kết quả hình ảnh cho maclenin
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau khi đi vào giải quyết vấn đề: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ có mối liên hệ qua lại với nhau hay tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quyết định mối liên hệ đó?
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách rời nhau, không có sự phụ thuộc, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu có thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song lại phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Những người theo quan điểm duy tâm cho rằng cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan chỉ ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của các mối liên hệ. Còn Béccơly đứng trên lập trường duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Vượt lên trên quan điểm siêu hình, duy tâm, quan điểm duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn: bão từ diễn ra từ mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó, tác động đến mọi vật, trong đó có con người.
- Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới khách quan.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới tự nhiên, trong xã hội loài người và trong tư duy. Đó là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật. Mối liên hệ phổ biến thể hiện ra trong những điều kiện nhất định, thành mối liên hệ đặc thù.     
Vậy mối liên hệ phổ biến có những tính chất nào?
Thứ nhất, tính khách quan:
+ Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau, song chúng đều là những dạng cụ thể của thế giới vật chất. Và chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau.
  + Các sự vật và hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật và hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật và hiện tượng khác.
Thứ hai, tính phổ biến: Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến thể hiện qua những điểm sau:
- Xét về mặt không gian: Mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật khác. Trong hiện thực khách quan không có sự vật hiện tượng nào cô lập, không tác động và không nhận tác động từ sự vật, hiện tượng khác. Vừa tách biệt nhau, vừa phụ thuộc vào nhau – đó là hai mặt của quá trình tồn tại, vận động, phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng.
- Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: Các yếu tố, bộ phận cấu thành nên sự vật không tồn tại trong trạng thái biệt lập hay hổn độn mà chúng được kết cấu theo một trật tự logic nhất định, một kiểu tổ chức nhất định tạo thành một chỉnh thể.
      - Xét về mặt thời gian: Mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai đoạn, những thời kỳ khác nhau. Các giai đoạn, các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau.
Thứ ba, mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú và phức tạp:
- Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất đa dạng. Khi nghiên cứu về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau như: Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, mối liên hệ bản chất và không bản chất…
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ.
- Sự phân chia từng cặp mối liên hệ nêu trên chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng ta rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Cụ thể là:
      - Trong nhận thức:
- Trong hoạt động thực tiễn:
        
         Tóm lại, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra tính chất khách quan, tính phổ biến và tính phong phú của sự tồn tại trong các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó muốn nhận thức đối tượng đúng đắn thì cần phải tôn trọng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong khi nhận thức, xem xét, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc và cuộc sống./.