Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa
phương pháp luận?
Quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của các
trường phái triết học. Mọi trường phái TH đều tập trung giải quyết. Tuy nhiên mỗi
trường phái khác nhau thì có cách lý giải khác nhau. Theo quan điểm duy tâm cho
rằng ý thức tinh thần là cái có trước, giữ vai trò quyết định đối với vật chất.
Quan điểm nhị nguyên luận thì cho rằng cả VC và YT đều song song tồn tại, không
có cái nào giữ vai trò quyết định và cả 2 đều là những nguyên thể đầu tiên để tạo
nên thế giới. Chỉ đến TH MLN thì quan hệ này mới giải quyết 1 cách triệt để và
có căn cứ khoa học.
Để hiểu được giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ như
thế nào, trước hết chúng ta cần nắm được các định nghĩa về vật chất và ý thức
theo quan niệm của chủ nghĩa Mác.
1. Định nghĩa vật chất.
Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin
được diễn đạt như sau: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là một phạm trù triết học: Vật
chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận,
không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ
thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyên hoá thành cái
khác. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật
chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch
sử cổ đại, cận đại đã làm.
- Vật chất là cái tồn tại khách quan ở
bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức. Đây chính là thuộc tính cơ bản
nhất, chung nhất của vật chất, là điểm chủ yếu để phân biệt được cái gì thuộc về
vật chất và cái gì không thuộc vật chất.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở
con người khi bằng cách nào đó trực tiếp hay gián tiếp tác động vào các giác
quan của con người. Điều này khẳng định tính có thể nhận biết được của vật chất
và con người thông qua các giác quan của mình hoàn toàn có thể nhận thức được
thế giới xung quanh.
- Vật chất là cái mà cảm giác, tư duy,
ý thức của con người chẳng qua là cái phản ánh của nó mà thôi. Điều này khẳng định
trong quan hệ với ý thức thì vật chất giữ vai trò quyết định, nó là nguồn gốc
khách quan của ý thức.
2. Định nghĩa về ý thức.
“Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn
bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong óc người, phản ánh thế giới vật chất bên
ngoài, được hình thành trong quá trình vận động và được diễn đạt nhờ phương tiện
ngôn ngữ”
- Quan điểm Macxit cho rằng: ý thức ra
đời và phát triển từ những điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội (tức là do bộ
óc phản ánh các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan và do lao động và
ngôn ngữ).
+ Về nguồn gốc tự nhiên: Dựa trên thành
tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không
phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các
nhà thần học, duy tâm khẳng định mà ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ
chức cao đó là bộ óc của con người
+ Về nguồn gốc xã hội: Điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời
cùng với quá trình hình thàh bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ
xã hội.
- Xét về bản chất, ý thức là sự phản
ánh tích cực sáng tạo các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào trong
tư duy của con người, tạo nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Xét về kết cấu, ý thức có nhiều yếu tố
khách quan như tri thức, ý chí, tình cảm, động cơ, niềm tin, lý tưởng… các yếu
tố đó có vị trí khách nhau nhưng đồng thời lại có mối quan hệ khăn khít, tác động
lẫn nhau và cùng tạo nên tác động tổng hợp của ý thức.
Vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ
như thế nào?
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Thứ nhất: Vai trò quyết định của vật chất đối với
ý thức
Triết học Mác - Lênin trên khẳng định rằng:
vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức
và vai trò quyết định đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, xét về mặt thời gian, vật chất là cái có trước, là cái vô cùng vô tận,
không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Còn ý thức là cái có
sau, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người, loài người và nó là kết
quả của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên cũng như của những hoạt động của
con người. Vì vậy ý thức là cái không thể nào sinh ra vật chất được.
Hai là, xét về mặt nguồn gốc hình thành: VC không do ai sáng tạo ra và không thể
bị mất đi, có nguồn gốc từ bản thân nó còn sự xuất hiện của ý thức có nguồn gốc
từ tự nhiên và XH và những nguồn gốc này có liên quan, gắn bó chặt chẽ với TG
VC. Thế giới vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ba là, xét về mặt nội dung : ý thức chỉ là cái phản ánh, còn thế giới vật chất
là cái được phản ánh. Đương nhiên, nếu không có cái được phản ánh-tức là thế giới
vật chất-thì sẽ chẳng có được một hình ảnh nào đó về nó. Vật chất quyết định nội
dung của ý thức.
Bốn là, xét về sự vận động, biến đổi và phát triển của ý thức: sự phát triển của
tư duy, của ý thức con người phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn
con người trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới vật chất. Trình độ nhận thức
của con người phụ thuộc vào trình độ hoạt động chinh phục tự nhiên, cải tạo XH
của chính con người. Do đó, vật chất quyết định phương thức, kết cấu của ý thức.
Như vậy, xét cả về mặt thời gian, nguồn
gốc hình thành, về mặt nội dung cũng như về sự vận động biến đổi và phát triển
của ý thức cho thấy: vật chất luôn là tính thứ nhất, ý thức luôn là tính thứ
hai, vật chất bao giờ cũng quyết định ý thức.
Thứ hai: Ý thức có tác động mạnh mẽ trở lại đối
với thế giới vật chất.
- Trong khi nhấn mạnh vật chất quyết định
ý thức thì triết học Mác-Lênin đồng thời cũng khẳng định ý thức cũng có tác động
mạnh mẽ trở lại đối với vật chất, theo cả hai chiều hướng:
+ Những ý thức đúng đắn, khoa học và
cách mạng phản ánh đúng bản chất, quy luật vận động của thế giới vật chất sẽ có
tác động tích cực thúc đẩy sự vận động, phát triển của thế giới vật chất.
+ Những ý thức, tư tưởng phản khoa học,
phản ánh xuyên tạc bản chất, quy luật vận động thế giới khách quan sẽ có tác động
tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
- Chúng ta cũng cần phải chú ý rằng:
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất
bao giờ cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Còn bản thân ý
thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được gì trong hiện thực. Vì vậy nói tới
vai trò của ý thức về thực chất là nói đến vai trò của con người, ý thức chỉ đạo
hành động của con người hình thành mục tiêu kế hoạch, biện pháp cho hoạt động của
con người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với
vật chất bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở vật chất là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai. Trong bất kỳ trường hợp nào ý thức cũng chỉ là sự phản ánh thế giới
vật chất và sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh và sáng tạo trong
khuôn khổ của sự phản ánh.
Thứ ba: Biểu hiện của mối quan hệ vật chất và
ý thức trong đời sống xã hội
Qua đó, chúng ta có thể xác định được
biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội, đó là
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại
tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giũa vật chất và ý thức còn là cơ sở để
xem xét các mối quan hệ khác như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn,
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan…
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể
rút ra được những ý nghĩa sau:
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vật chất quyết định ý thức, ý thức là
sự phản ánh vật chất cho nên trong hoạt động nhận thức phải đảm bảo nguyên tắc:
“Tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy thực tế
khách quan là căn cứ cho mọi kế hoạch của mình.
Lê Nin đã nhấn mạnh: “Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm
chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách
lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý
muốn chủ quan, nếu lấy ý trí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực
thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan dung ý chí”.
+ Phải có quan điểm khách quan, tránh
thái độ chủ quan, nóng vội, không trung thực trong xem xét và giải quyết vấn đề.
+ Không được lấy nhiệt tình cách mang
thay thế cho tri thức. (“Nhiệt tình + sự ngu dốt thành ra phá hoại”)
+ Trong hoạt động thực tiễn phải biết
nhận thức và vận dụng khách quan một cách chủ động, sáng tạo, với ý chí cách mạng
theo nhu cầu tiến bộ xã hội. Chống lại chủ quan duy ý chí bất chấp quy luật
khách quan mà phải luôn luôn xuất phát từ thực tế.
+ Trong hoạt động thực tiễn, những mục
đích, chủ trương mà chúng ta đặc ra cho hoạt động thực tiễn là đúng đắn là hiện
thực phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan; nếu không chú ý đến tính
quy định của điều kiện vật chất khách quan thì sẽ trở thành mục tiêu không hiện
thực, không tưởng.
+ Những biện pháp thực tiễn mà con người
dùng để cải tạo thế giới vật chất không phải là sự sáng tạo thuần túy của ý thức
mà là phải dựa vào những gì đang có trong hiện thực.
+ Bản thân tư tưởng, dù tư tưởng lành mạnh
đến mấy, tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Lực lượng vật chất
phải đánh bại bằng lực lượng vật chất.
+ Ý thức tư tưởng chỉ có thể duy trì và
phát triển trên cơ sở những quan hệ vật chất nhất định. Cũng không thể dùng ý
thức để duy trì những quan hệ vật chất trong lịch sử được. Vì rằng những quan hệ
vật chất tồn tại theo những quy luật khách quan vốn có của nó không phụ thuộc
vào ý thức, tư tưởng.
- Bên cạnh đó, ý thức có tính độc lập
tương đối tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
vì vậy cần phải phát huy tính tích cực năng động của ý thức, của nhân tố chủ
quan bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng
chúng vào trong hoạt động thực tiễn qua một cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp.
+ Muốn đề ra mục đích chủ trương và biện
pháp hành động thực tiễn đúng, phải nhận thức đúng được điều kiện vật chất
khách quan. Như vậy, ngay từ đầu, ý thức giữ vai trò rất quan trọng. Vì nếu
không nhận thức đúng đắn điều kiện vật chất khách quan cho phép thì sẽ đề ra mục
đích, chủ trương và biện pháp sai lầm.
+ Khi đã có mục đích, chủ trương và biện
pháp đúng, muốn cho những khả năng khách quan thành hiện thực, con người cần có
ý chí, nghị lực, quyết tâm thực hiện nó. Ơ đây, ý thức tư tưởng trở thành nhân
tố quan trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động thành công hay
thất bại khi thực hiện những khả năng khách quan.
5. Ý nghĩa đối với quá trình xây dựng đất
nước ta
- Cần xuất phát từ thực tế khách quan:
“Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý
chí, tả khuynh bất chất thực tế khách quan, bất chấp quy luật khách quan cũng
như hữu khuynh có thái độ thụ động chờ đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh
khách quan”
(Nội dung xuất phát từ thực tế khách
quan là)
+ Thực tế ở Việt Nam thời kỳ trước đổi
mới chúng ta đã phạm phải những sai lầm. Đó là khuynh hướng tả khuynh trong quá
trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới: nóng vội, đốt cháy giai đoạn, vi phạm
quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất… do đó tiến hành cải cách ồ ạt, xóa
bỏ nhanh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Do đó, trong cương lĩnh của Đảng ta đại hội VII đã
khẳng định: “Đảng đã phạm phải sai lầm chủ
quan duy ý chí, vì phạm phải quy luật khách quan” và Đại hội rút ra bài học
là: “Mọi đường lối, chủ chương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Bài học này luôn
có ý nghĩa thời sự xuyên suốt quá trình đổi mới ở nước ta.
+ Tại Đại hội IX, trong những bài học
rút ra qua 15 năm đổi mới, Đảng khẳng định: “Đổi
mới phải phù hợp với thực tiễn và luôn sáng tạo”.
+ Tại đại hội XI, nghị quyết nêu rõ “trong công tác lãnh đạo và
chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo,
kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới…”.
- Bên cạnh việc cần phải tôn trọng thực
tế khách quan, trong quá trình xây dựng đất nước cần phải phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, tính tích cực, chủ động trong hoạt động cải tiến thế giới
khách quan của con người.
+ Vai trò tích cực của ý thức tư tưởng
không phải ở chỗ nào nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là
nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục
đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình. Con
người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế
giới có hiệu quả. Vì vậy phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, pháy huy
vai trò nhân tố con người trong việc cải tạo thế giới khách quan là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng.
+ Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Trong thời kỳ đổi mới phải lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước ý chí quật cường phát huy
tài chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
+ Đến Đại hội IX, Đảng cộng sản Việt
Nam khẳng định “Phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam;coi phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH….. phát
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững..”
+ Đại hội lần thứ X: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả
trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất
nước”
Như vậy, trong quá trình xây dựng đất
nước, Đảng và nhà nước ta đã xác định rõ tư tưởng đó là: Cần chống xu hướng,
quan điểm coi thường thực tế khách quan để rơi vào chủ nghĩa duy tâm, duy ý
chí. Mặt khác cần chống khuynh hướng giáo điều hay thụ động chờ đợi để rơi vào
chủ nghĩa bảo thủ.
(* Phương hướng xây dựng đất nước
- Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Từ những luận điểm của cách mạng Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ
lên CNXH và đặc điểm của thời cuộc ngày nay.
- Từ kinh nghiệm thành công hay không thành công của các nước trong và
ngoài khu vực trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước của họ.
- Xuất phát từ nhiệm vụ trong tâm của nước ta hiện nay là phải làm cho sản
xuất phát triển nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu,
xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất để từng bước xây dựng, củng cố QHSH mới
theo định hướng XHCN.
+ Xây dựng đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, từng bước thể chế hóa bằng pháp luật;
phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với đất nước, các địa
chỉ từ thiện.
+ Tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là giải pháp quyết
định đưa đất nước phát triển lên CNXH. Song CNH-HĐH thành công hay không trước
hết do sức mạnh bên trong của chúng ta quyết định, đồng thời phải biết tranh thủ
tối đa các nguồn lực bên ngoài.
+ Đẩy mạnh sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, phát huy nhân tố con người để
xây dựng chế độ xã hội mới.
+ Chống 4 nguy cơ: tuột hậu về kinh tế, diễn biến hòa bình, tham nhũng
và đi chệch hướng XHCN, chống chủ quan duy ý chí.
+ Bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng… chống đa nguyên về chính trị.)
* Ý nghĩa phương pháp luận trong công
tác công an.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét